Đại tướng trẻ nhất Việt Nam hiện nay

Photo of author

Nội dung chính

  • Chỉ huy đội du kích Tràng Định
  • Tin liên quan
  • Video liên quan

TPO – Trở thành vị tướng trẻ của Quân đội Việt Nam khi mới 40 tuổi; Quả cảm, ứng biến khôn lương của nữ tướng đầu tiên của Việt Nam; Nổi tiếng vì là ‘tướng quốc lưỡng quốc’… nhiều vị tướng Việt Nam còn lưu danh muôn thuở.

Nhập ngũ năm 18 tuổi, tham gia 67 trận quyết tử với quân địch. Ông là một trường hợp đặc biệt quan trọng trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam vì từ một anh lính nghĩa vụ và trách nhiệm nhưng đã nhiều lần hoàn thành xong xuất sắc trách nhiệm, lập được những chiến công lớn, từng trải qua hầu hết những vị trí cấp trưởng trong quân đội và rồi đảm nhiệm trách nhiệm quan trọng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi 40 tuổi, ông được phong Tướng và đó cũng là vị tướng trẻ của Quân đội vào thời gian ấy. Ông là Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu .
Tháng 10.1945, khi mới 24 tuổi, Hoàng Minh Thảo đã được giao làm Khu trưởng Chiến khu ba, thay tướng Nguyễn Bình vào Nam làm Tư lệnh Nam Bộ. Chiến khu ba lúc này gồm có những tỉnh duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ. Chàng người trẻ tuổi mới ngoài tuổi đôi mươi đã đứng trấn giữ cả một vùng duyên hải to lớn từ Thành Phố Hải Dương đến Móng Cái ( thuộc tỉnh Hải Ninh lúc đó ) nơi đương đầu trực tiếp với thực dân Pháp đổ xô từ cửa biển TP. Hải Phòng vào. Đặc biệt, những trận đánh với quân đội nhà nghề của thực dân Pháp trên đường số 5 từ Thành Phố Hải Dương ngược lên Hưng Yên sau ngày Toàn quốc kháng chiến ( 19.12.1946 ) đã cho thấy bản lĩnh của một vị tướng cầm quân ở con người ông. Một câu hỏi được đặt ra, từ đâu mà Hoàng Minh Thảo có kiến thức và kỹ năng quân sự chiến lược khi tuổi đời còn trẻ đến vậy ? Năm 1941, Tổng bộ Việt Minh cử một đoàn cán bộ người trẻ tuổi đi học quân sự chiến lược ở Liễu Châu ( Trung Quốc ). Trường này do chính quyền sở tại Tưởng Giới Thạch lập ra, để đào tạo sĩ quan chống phát xít Nhật. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khi đó, với tầm nhìn xa của mình, đã tiên đoán được sự tăng trưởng của cách mạng cần một lực lượng quân đội hùng mạnh. Dựa vào chủ trương của chính quyền sở tại Tưởng Giới Thạch, để có những vị tướng giỏi chỉ huy quân đội sau này, Nguyễn Ái Quốc nhu yếu lựa chọn những nam người trẻ tuổi xuất sắc ưu tú sang học quân sự chiến lược này. Học viên từ những nước Việt Nam, Vương Quốc của nụ cười, Miến Điện ( nay là Myanmar ) … đều được thu nhận. Đoàn học viên đến từ Việt Nam do Tổng bộ Việt Minh cử đi có Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Nam Long … Trong số đó có học viên Tạ Thái An, sau này mang tên Hoàng Minh Thảo.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp ( trái ) và Thượng tướng Hoàng Minh Thảo ẢNH : T.L

Mùa hè năm 1944, tốt nghiệp trường quân sự chiến lược ở Liễu Châu ( Trung Quốc ), đại bộ phận đoàn học viên quân sự chiến lược Việt Minh, trong đó có Tạ Thái An, được chuyển về Nam Ninh để liên tục học một lớp bổ túc về quân sự chiến lược do Mỹ huấn luyện và đào tạo. Để có được những thông tin kịp thời báo về những chiến sỹ trong nước, ông liên tục đi lại những vùng Nam Ninh, Liễu Châu … để nắm tình hình. Lúc này, tình hình Chiến tranh Thế giới lần thứ hai biến chuyển rất mau lẹ. Tổ chức nhu yếu những cán bộ quân sự chiến lược phải về nước để tranh thủ thời cơ giành chính quyền sở tại. Hoàng Minh Thảo khẩn trương về Thành Phố Lạng Sơn.

Chỉ huy đội du kích Tràng Định

Ở Thành Phố Lạng Sơn, ông đã tham gia tổ chức triển khai đội du kích huyện Tràng Định. Sau này, năm 2008, cùng với Đại tá Đào Văn Trường và Thượng tướng Phùng Thế Tài, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã đại diện thay mặt cho những đội quân du kích tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam lên nhận Huân chương Quân công hạng nhất do quản trị nước Nguyễn Minh Triết trao tặng. Đó là đội Cứu quốc quân Bắc Sơn do ông Chu Văn Tấn chỉ huy ; đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy ; đội du kích Ba Tơ do ông Phạm Kiệt chỉ huy ; đội Đệ tứ chiến khu do ông Nguyễn Bình chỉ huy …

“ Suốt cuộc sống, Thượng tướng – Giáo sư Hoàng Minh Thảo đã hết lòng Giao hàng Đảng, ship hàng nhân dân, ship hàng quân đội, yêu thương chiến sỹ, đồng đội, hoàn thành xong mọi trách nhiệm được Đảng và nhân dân phó thác ; nêu một tấm gương sáng mẫu mực cho cán bộ, chiến sỹ quân đội ta. Đối với tôi, chiến sỹ Hoàng Minh Thảo là một người chiến sỹ, người bạn chiến đấu rất thân thương, thuỷ chung. Tôi luôn đặt niềm tin vào chiến sỹ trong mọi trách nhiệm ”

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Để tổ chức triển khai đội du kích huyện Tràng Định, Hoàng Minh Thảo và những chiến sỹ cốt cán tập hợp được chừng 20 người, hoạt động đồng bào góp phần tiền của để sang Trung Quốc shopping vũ khí. Sau đó đội du kích Tràng Định được Cao Bằng tăng cường một tiểu đội và một khẩu trung liên. Tháng 5.1945, đội du kích Tràng Định lập chiến công tiên phong đánh chiếm đồn Pò Mã. Sau trận đánh đồn Pò Mã, đội chiêu tập thêm người, đi những địa phương thiết kế xây dựng cơ sở. Bằng việc tổ chức triển khai đánh thổ phỉ bảo vệ đời sống nhân dân, uy tín đội quân cách mạng được dân chúng tin yêu. Thời cơ đến, sáng ngày 22.8.1945, đội du kích Tràng Định vũ trang vừa đủ chia làm hai mũi tiến vào phủ đường Tràng Định. Lực lượng vũ trang cách mạng đã nhanh gọn làm chủ tình hình, nắm chính quyền sở tại. Lập chính quyền sở tại mới ở Tràng Định xong, Hoàng Minh Thảo cùng những chiến sỹ về thị xã Thành Phố Lạng Sơn tham gia khởi nghĩa nhưng chưa đến nơi thì thị xã cũng đã giành được chính quyền sở tại. Tỉnh trưởng Linh Quang Vọng đầu hàng, chuyển giao ấn tín cho Việt Minh. Từ Tư lệnh Chiến khu ba, Hoàng Minh Thảo được cử vào Chiến khu bốn thay tướng Nguyễn Sơn. Năm 1950, Đại tá Hoàng Minh Thảo được cử làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304 – đơn vị chức năng bộ đội nòng cốt chiến đấu vừa được xây dựng. Cuộc đời binh nghiệp của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo là một bản anh hùng ca gắn liền với những chiến công vang dội. Năm 1975, ông là Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, đã giáng đòn điểm huyệt vào quân đội VNCH, mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, tiếp nối là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng trọn vẹn miền Nam, thống nhất quốc gia ( 30.4.1975 ). Chiến tranh kết thúc, ông tập trung chuyên sâu trí tuệ viết nên nhiều tác phẩm tổng kết về lý luận quân sự chiến lược, làm cẩm nang cho những thế hệ tương lai : Tìm hiểu một số ít yếu tố về thẩm mỹ và nghệ thuật chỉ huy ; Nghệ thuật tác chiến : mấy yếu tố lý luận và thực tiễn ; Về cách dùng binh ; Mấy yếu tố về nghệ thuật và thẩm mỹ quân sự chiến lược …

Thượng tướng, Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo ( 1921 – 2008 ) tên thật là Tạ Thái An, sinh tại huyện Tràng Định ( TP Lạng Sơn ) trong một mái ấm gia đình tiểu thương nhỏ lẻ : bố làm thợ may với một cửa hiệu nhỏ ở thị xã Thất Khê. Còn quê nội của ông là xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Ông được phong Giáo sư ngành Khoa học quân sự chiến lược và thương hiệu Nhà giáo Nhân dân. Năm 2005, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo được Nhà nước Tặng Ngay Trao Giải Hồ Chí Minh cho cụm khu công trình về thẩm mỹ và nghệ thuật quân sự chiến lược Việt Nam.

Tin liên quan

Đại tướng trẻ nhất

Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, lúc đó ông 37 tuổi. Tiếp sau đó là các sắc lệnh phong Trung tướng Nguyễn Bình và các vị Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai và Trần Đại Nghĩa (1) .

Có một phóng viên báo chí phương Tây mới hỏi Bác Hồ rằng : Chúng tôi chưa thấy Việt Nam có trường quân sự chiến lược hạng sang nào. Vậy Ngài quản trị địa thế căn cứ vào đâu để phong nhiều cấp Tướng như vậy ?
Bác Hồ cười rất đôn hậu và vấn đáp rằng : “ Việt Nam chúng tôi đang đánh giặc theo kiểu du kích, nên cũng phong quân hàm theo lối du kích, nghĩa là ai đánh thắng Đại tá thì phong Đại tá, ai đánh thắng Thiếu tướng thì phong Thiếu tướng, ai đánh thắng Đại tướng thì phong Đại tướng, và có lẽ rằng ông cũng chấp thuận đồng ý với tôi là phong như vậy vẫn còn là nhã nhặn phải không ? ” .
Người phóng viên báo chí phương Tây ấy trọn vẹn bị giật mình, vì vào thời gian năm 1948 thì nước Pháp đã phải thay hai vị Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương vì bại trận, đó là những tướng Le Clerc ( Lơ-cờ-lec ), Valluy ( Va-luy ). Đây đều là những tướng 4 sao tài ba của nước Pháp .

Đại tướng hiển hách nhất

Trong 30 năm làm Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng của Việt Nam ( 1946 – 1976 ), ông đã tổ chức triển khai chỉ huy quân và dân ta lần lượt vượt mặt những đội quân xâm lược của phát xít Nhật, để cướp chính quyền sở tại trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau đó là đánh thắng đội quân viễn chinh của thực dân Pháp gần 20 vạn tên, và ở đầu cuối là vượt mặt đội quân xâm lược của đế quốc Mỹ 54 vạn quân và 6 vạn quân liên minh của Mỹ .
Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về truyền thống lịch sử thượng võ của dân tộc bản địa, từ Trần Hưng Đạo thế kỷ XIII đến Võ Nguyên Giáp – thế kỷ thứ XXI là gần 700 năm. Một người trong vòng 30 năm, 3 lần thắng đế quốc to ; một người cũng trong vòng 30 năm đánh thắng 3 đế quốc to. Một người được nhân dân vinh danh là Đức Thánh Trần, một người được tôn vinh là vị Tướng của nhân dân .
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng phu nhân tại bờ biển Quảng Bình – nơi mà quản trị Hồ Chí Minh từng thăm những ngư dân .

Đại tướng đánh thắng nhiều Đại tướng nhất

Trong cuộc sống cầm quân của mình, từ 1946 đến 1954, ông đã lần lượt vượt mặt 7 Đại tướng Pháp. Đầu tiên là tướng 4 sao Philippe Le Clerc nhậm chức tháng 8-1945, đến tháng 6-1946 bị triệu hồi vì thất bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh. Tướng 4 sao Etienne Valluy sang thay, đến tháng 5-1948 lại bị triệu hồi vì thất bại trong Thu Đông 1947. Đến lượt tướng 4 sao C.Blaijat sang thay, nhưng được một năm, đến tháng 9-1949 lại phải thay vì không triển khai được kế hoạch “ Lấy cuộc chiến tranh nuôi cuộc chiến tranh, dùng người Việt trị người Vịêt ”. Tướng 4 sao M.Corgente sang thay lại bị một đòn đau trong chiến dịch Biên giới, tháng 12-1950 được thay bằng tướng Delattre De Tassigny, đây là vị tướng 5 sao, người tài nhất của nước Pháp, nhưng cũng chỉ được một năm vì bị thua trận ở khắp nơi, nhất là việc kiến thiết xây dựng hàng nghìn lô cốt boong ke để co về cố thủ. Tướng Raul Salan sang thay, tướng 4 sao này trụ được từ tháng 12-1951 đến tháng 5-1953 lại bị thay vì thua trong chiến dịch Hoà bình và những mặt trận ở toàn Đông Dương. Cuối cùng là tướng 4 sao Henri Navarre, ông này bị thua đậm nhất ở khắp những chiến trường Đông Dương mà đau nhất là ở Điện Biên Phủ, ông từng thách tướng Giáp đánh Điện Biên, nhưng sau cuối phải dùng máy bay Mỹ trực tiếp ném bom xuống Điện Biên Phủ mà cũng không cứu vãn được. Sau khi bị thua ở đây, tháng 6-1954, tướng 5 sao Ely sang thay. Ông này suôn sẻ, vì 1 tháng sau Hiệp định Giơnevơ đã ký, nên Ely chỉ làm trách nhiệm thu quân, cuốn cờ về nước .
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 1955 đến 1960, Mỹ thực thi kế hoạch “ Chiến tranh đơn phương ”, họ đã phải thay 2 đại sứ Mỹ ở miền Nam. Từ 1961 đến 1964, bị thất bại trong kế hoạch “ Chiến tranh đặc biệt quan trọng ”, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Mỹ – tướng Hakin phải triệu hồi. Từ 1965 đến 1968, Mỹ lại liên tục thua trong kế hoạch “ Chiến tranh cục bộ ”, Tổng tư lệnh Westmoreland bị không bổ nhiệm. Từ 1965 đến 1975, Mỹ chuyển sang kế hoạch “ Việt Nam hoá cuộc chiến tranh ”, thời hạn này, Tổng tư lệnh C.Abrams được thay bằng tướng F.C.Weyand, ông này là người cuốn cờ để rút quân về Mỹ. Như vậy, Mỹ phải 4 lần thay Tổng tư lệnh .
Ngoài ra, quân đội Mỹ còn bị chết 12 tướng, bị thương 8 tướng khác trong cuộc chiến tranh Việt Nam .

Đại tướng viết nhiều sách nhất

Trong lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa Việt Nam, tướng võ thường giỏi văn như Lý Thường Kiệt với bài thơ thần “ Nam quốc sơn hà ”, Trần Hưng Đạo với “ Hịch tướng sĩ ” văn, Quang Trung với lời dụ tướng sĩ. Tướng văn lại giỏi võ như Nguyễn Trãi, với kế hoạch tâm công ( đánh vào lòng người ) .
Võ Nguyên Giáp, cùng với sự nghiệp quân sự chiến lược độc nhất vô nhị, ông còn là tác giả của 64 đầu sách, trên 10 vạn trang in, góp phần vào kho tàng lý luận về cuộc chiến tranh nhân dân, về học thuyết quân sự chiến lược Việt Nam, vào kho tàng văn học và sử học của nước nhà .

Đại tướng có những quyết định đậm dấu ấn lịch sử

– Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông đã quyết đoán đổi khác mục tiêu từ “ đánh nhanh, thắng nhanh ” sang “ đánh chắc, tiến chắc ”, ông tâm sự rằng, đây là quyết định hành động khó khăn vất vả nhất trong cuộc sống chỉ huy của mình. Bình luận về sự kiện này, Đại tướng nước Anh là Peter Macdonald viết : “ Cách tiến hành trận đánh Điện Biên Phủ và hậu quả của nó đã làm cho chiến trận này trở thành một cuộc chiến đấu mang tính quyết định hành động nhất trong mọi thời đại và ghi tên Võ Nguyên Giáp vào những sử sách ” .
– Trong trận quyết chiến kế hoạch năm 1975, ông đã ra một mệnh lệnh lịch sử dân tộc :
1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa ; táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng .
2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sỹ .
Mệnh lệnh này trở thành một sức mạnh vật chất khác thường để rút ngắn thời hạn giải phóng miền Nam từ 2 năm, 1 năm và ở đầu cuối là 56 ngày .
– Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất quốc gia, trong một cuộc giao lưu tại Nhà hát lớn TP. Hà Nội trong chương trình “ Vang mãi khúc quân hành ”, ông nói : “ Thế hệ cha anh đã xoá được nỗi nhục mất nước, thế hệ trẻ cần phải xoá đi nỗi nhục nghèo nàn, lỗi thời ”. Thắng thực dân Pháp, tất cả chúng ta có Điện Biên Phủ ở Tây Bắc, thắng đế quốc Mỹ, ta có một Điện Biên Phủ trên khung trời TP. Hà Nội. Ông đau đáu một tâm sự “ Phải có một Điện Biên Phủ trong khoa học và công nghệ tiên tiến ”, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia .
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng mái ấm gia đình tại quê nhà – An Xá, Lệ Thủy, Quảng Bình

Đại tướng giàu tình cảm

Ngày 28/5/1948, lễ thụ phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức ở xã Phú Bình, huyện Định Hoá, Thái Nguyên, do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa, tới dự có khá đủ các thành viên của Chính phủ.

Bác Hồ gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ cúng Tổ quốc, bằng một giọng trang nghiêm và xúc động, Bác nói : “ Hôm nay, đại diện thay mặt nhà nước và nhân dân … ”, rồi bỗng nghẹn lời, Bác rút khăn lau nước mắt. Giây phút đó làm cho mọi người xúc động, lát sau, Bác nói tiếp : “ Nhân danh quản trị nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú tinh chỉnh và điều khiển binh sĩ làm trọn sứ mạng mà Quốc dân phó thác cho ” .
“ Việc phong tướng cho chú Giáp và những chú khác thời điểm ngày hôm nay là tác dụng biết bao quyết tử chiến đấu của đồng bào, chiến sỹ … Các thế hệ đi trước chiến đấu cho độc lập mà sự nghiệp không thành, nhắm mắt vẫn còn chưa thấy độc lập tự do. Chúng ta thời nay như mong muốn hơn, nhưng trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn vất vả. Nghĩ tới hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống cho ngày ngày hôm nay, tất cả chúng ta phải nỗ lực giành cho được độc lập, tự do để thoả mãn vong linh những người đã khuất ” .
Hôm đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khóc .
Ngày 3/4/1954, khi nghe trợ lý tác chiến báo cáo giải trình Trung đoàn 174 và Trung đoàn 102 đánh đồi A1 ở Điện Biên Phủ chiến đấu rất gan góc, mà vẫn chưa dứt điểm được. Thương cán bộ chiến sỹ quyết tử nhiều, ông đã rơi nước mắt .
Năm 1989, Đại tướng về thăm bảo đảm an toàn khu huyện Định Hoá, Thái Nguyên, những mẹ, những chị từng nuôi và che chở cho Đại tướng trong những ngày đầu cách mạng còn khó khăn vất vả, cứ thế chạy lại ôm lấy Đại tướng mà hôn, mà khóc, ông cũng không cầm lòng được, cũng nước mắt lưng tròng, làm cho cuộc đón rước rất thân tình và xúc động .
Năm 1994, khi đọc tin Nhà nước phong tặng thương hiệu “ Bà mẹ Việt Nam anh hùng ” đợt tiên phong, ông đã khóc. Có lẽ ông nghĩ đến những bà mẹ đã trao những đứa con trai mưu trí và khỏe đẹp cho ông để đi đánh giặc, và những anh đã không trở lại .
Năm 2005, trong cuộc hành quân “ Tiếp lửa truyền thống cuội nguồn vang mãi khúc quân hành ”, khi tiễn 1.000 cựu chiến binh trong cuộc hành quân vào TP HCM dự lễ kỷ niệm 30 năm Giải phóng, ông gặp gỡ những cựu chiến binh, thấy một người già yếu, mặc áo sờn vai, Đại tướng đã khóc, những người xuất hiện lúc đó đều rất là xúc động .
Năm 2010, trong bộ phim về tướng Vũ Lăng, khi phát biểu về vị tướng này, ông cũng đã khóc, những giọt nước mắt của vị tướng đã 100 tuổi khóc thương một vị tướng tài – một người bạn chiến đấu của ông .

Đại tướng yêu hoà bình trong độc lập tự do

Tháng 4 năm 1946, Võ Nguyên Giáp là Phó trưởng đoàn trong phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà tới Đà Lạt dự cuộc đàm phán trù bị.

Trước khi ra đi, Bác Hồ đến bắt tay từng người và nhắc nhở : “ Cần đặt yếu tố Nam Bộ và yếu tố đình chiến lên đầu chương trình nghị sự ” .
Võ Nguyên Giáp nói với tướng Gioăng là Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp trên đường đi từ Nam Kinh về Pari, ghé thăm Hội nghị Đà Lạt : “ Người Pháp phải triển khai đình chiến ở Nam Bộ theo đúng ý thức của bản hiệp định. Nếu không, nhân dân Việt Nam sẽ liên tục chiến đấu đến cùng. Tôi nói với ông điều này với tư cách là một người kháng chiến ” .
Trong Hội nghị, ông chứng minh và khẳng định : “ Các chiến sỹ Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn vất vả trong cuộc chiến tranh giành tự do cho Tổ quốc, chỉ hoàn toàn có thể gật đầu hoà bình trong công minh và danh dự … Lịch sử sẽ chứng tỏ lời nói của chúng tôi là đúng ” .
Ngày 6/7/1956, trong thư của quản trị Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước về cuộc đấu tranh chính trị hồi đó, Người viết : “ Nhiệm vụ thiêng liêng của tất cả chúng ta là : Kiên quyết liên tục đấu tranh thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, triển khai thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng chiêu thức hoà bình, hoàn thành xong sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc bản địa ” ( 1 ) .
Ngày 9/7/1956, trong cuộc mít tinh của nhân dân TP.HN, hưởng ứng bức thư của Hồ Chủ Tịch, Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp nói : “ Chủ trương của tất cả chúng ta là thống nhất nước nhà bằng giải pháp hoà bình, và tất cả chúng ta đánh giá và nhận định rằng trong điều kiện kèm theo trong nước và quốc tế lúc bấy giờ sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có năng lực hoàn thành xong bằng giải pháp hoà bình ” ( 2 ) .
Ông còn nói : “ Chúng ta lại phải nhớ rằng, quốc tế ngày này cuộc chiến tranh có năng lực tránh khỏi, nhưng rủi ro tiềm ẩn cuộc chiến tranh vẫn sống sót, thì ở nước ta, do sự can thiệp của Chủ nghĩa đế quốc vào miền Nam, do đó rủi ro tiềm ẩn cuộc chiến tranh vẫn sống sót ngay trên quốc gia ta .
Vì vậy mà trong khi chủ trương dùng chiêu thức hoà bình để triển khai thống nhất nước nhà, tất cả chúng ta vẫn phải nâng cao ý thức cẩn trọng đề phòng, chăm sóc đến năng lực phòng thủ của quốc gia để kịp thời đánh tan mọi hành vi khiêu khích, mọi thủ đoạn xâm lược, tuyệt đối không nên chủ quan, mất cẩn trọng ” ( 3 ). Hồi đó Bác Hồ đã trực tiếp giao cho Võ Nguyên Giáp khởi thảo Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết chứng minh và khẳng định trách nhiệm của cách mạng miền Nam là : “ Tiếp tục cách mạng dân tộc bản địa, dân chủ nhân dân, đánh đổ chính sách đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam để thực thi thống nhất nước nhà ” ( 1 )
Khi đế quốc Mỹ buộc dân tộc bản địa ta phải cầm súng, thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cương vị là Tổng tư lệnh đã chỉ huy, chỉ huy quân và dân ta làm ra điều thần kỳ của thế kỷ XX là đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược .
Tiến sĩ sử học Na-uy Stein Tonnesson chứng minh và khẳng định “ Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đặc biệt quan trọng yêu hoà bình. Đại tướng luôn nhấn mạnh vấn đề tầm quan trọng của hoà bình và sự thiết yếu phải duy trì hoà bình cho Việt Nam cũng như những nước khác trên quốc tế. Đó là điều mà tôi rất kính trọng và ấn tượng thâm thúy với Đại tướng Võ Nguyên Giáp ” ( 2 ) .

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được nhân dân tôn vinh, được nhân loại kính trọng

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được toàn quân yêu quý, tôn vinh là người anh cả của quân đội ; được nhân dân từ miền ngược đến miền xuôi, từ Nam ra Bắc, từ già tới trẻ đều kính trọng, thường gọi thân thương là Anh Văn, vị tướng của nhân dân .
– Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo viết : “ Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những nhân vật lớn của lịch sử vẻ vang Việt Nam, là nhân vật điển hình nổi bật trong trào lưu giải phóng dân tộc bản địa ở nước ta và hoàn toàn có thể trên toàn quốc tế, là một nhà quân sự chiến lược, chính trị, văn hoá, đạo đức ” .
– Giáo sư, Anh hùng lao động Trần Văn Giàu : “ Vài trăm năm sau, khi người ta nhắc đến Việt Nam thế kỷ XX thì chắc như đinh 2 cái tên đậm nét nhất là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, vì đó là hiện thân cho 2 thế hệ tiếp nối đuôi nhau nhau làm ra lịch sử dân tộc của thế kỷ hào hùng này ” .
– Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu khuyến mãi ngay câu đối :
” Võ công truyền quốc sử
Văn đức quán nhân tâm ” ( 3 ) .
Đại tướng Võ Nguyên Giáp được những nhà nghiên cứu trên quốc tế đã viết nhiều cuốn sách về ông. Họ đều ngợi ca chiến công và phẩm hạnh của ông .
– Tướng Đờ-cát-tơ-ri : “ Tôi thừa nhận tướng Giáp đã sành sỏi, khôn ngoan hơn tôi, hơn cả tướng Cô-nhi và Na-va. Tôi hân hạnh được làm đối thủ cạnh tranh của tướng Giáp, được làm “ kẻ chiến bại trực tiếp ” của một người tài năng như tướng Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông ta ” .
– Cecil B.Currey – Nhà sử học quân sự chiến lược Mỹ : “ Võ Nguyên Giáp là vị tướng duy nhất trong lịch sử vẻ vang tân tiến, triển khai chiến đấu chống quân địch từ thế vô cùng yếu, thiếu trang bị, thiếu nguồn kinh tế tài chính, dù thời kỳ đầu, trong tay chưa có quân nhưng vẫn liên tục vượt mặt tàn quân của đế quốc Nhật, quân đội Pháp ( đế quốc thực dân số 2 ) và Mỹ – một trong hai siêu cường quốc tế ” .
– Đại tướng nước Anh – Peter MacDonald : “ Rất nhiều thắng lợi của ông đã làm cho ông trở thành một trong những người chỉ huy vĩ đại nhất của toàn bộ những thời đại ” .
– Nhà sử học Na-uy, Tiến sĩ Stein Tonnesson : “ Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là một trong những vị tướng lịch sử một thời của thế kỷ XX được cả quốc tế ngưỡng mộ
– Nhà sử học Bernard Fall, trong tác phẩm “ Võ Nguyên Giáp – Con người và lịch sử một thời ” đã khẳng định chắc chắn : “ Trong một tương lai hoàn toàn có thể thấy trước, phương Tây chưa thể giảng dạy một vị tướng nào sánh kịp với Võ Nguyên Giáp ” .

Đại tá Nguyễn Huy Toàn – Nhà nghiên cứu tư tưởng Văn hoá quân sự

Viết một bình luận